Tiểu sử Tạ Tỵ

Tạ Tỵ (1921-2004)

 

Tên thật là Tạ Văn Tỵ,  là một họa sĩ và còn là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.

Ông sinh ngày 3 tháng 5 năm 1921 (tức ngày 26 tháng 3 năm Tân Dậu) tại Hà Nội. Tuy nhiên, trong giấy khai sinh của ông ghi là ngày 24 tháng 9 năm 1922, vì khai muộn mất một năm.

Từ khi còn là một sinh viên, Tạ Tỵ đã thành danh khá sớm. Năm 1941, nhờ nhận một giải thưởng tranh, ông được đến thăm kinh đô Huế.

Năm 1943, ông tốt nghiệp tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Và cũng năm này, bức tranh “Mùa Hè” của Tạ Tỵ đoạt một giải thưởng của Salon Unique.

Năm 1946, chiến tranh nổ ra giữa Việt NamPháp, Tạ Tỵ cùng với nhiều hoạ sĩ Việt Nam khác, đã tham gia mặt trận Việt Minh chống Pháp và ông là người thầy dạy mỹ thuật đầu tiên trong Liên khu 3. Tác phẩm “Nhớ Hà Nội” năm 1947 (20 × 25 cm) được Tạ Tỵ vẽ trong giai đoạn này.

Tháng 5 năm 1950, Tạ Tỵ rời khỏi vùng kháng chiến để trở về Hà Nội. Ông viết cho một người bạn rằng “Cách suy nghĩ của tôi không hợp với kháng chiến sau mấy năm chung sống với họ”.

Bắt đầu từ đầu thập niên 1950, ngoài tài vẽ chân dung hí họa, ông còn sáng tác trên nhiều lĩnh vực khác, như: truyện, thơ, kịch bản, bút ký…

Năm 1951, ông triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội.

Sau 1954, ông vào Nam và sống ở Sài Gòn. Ở đây ông đã phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc sau cùng là trung tá trong Tổng cục Chiến tranh Chính trị.

Năm 1956, ông triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn. Năm 1961, ông triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng cũng ở nơi đó.

Năm 1975, sau thời gian học tập cải tạo, ông cùng vợ con vượt biển đến Malaysia và đến định cư tại Hoa Kỳ.

Trong thời gian sống tại nước ngoài, Tạ Tỵ lại tiếp tục sáng tác. Năm 2003 sau khi vợ ông qua đời tại Hoa Kỳ, ông quyết định trở về Việt Nam với ước vọng sống những ngày cuối cùng ở quê hương mình.

Vào 10 giờ sáng 24 tháng 8 năm 2004 (mùng 9 tháng 7 năm Giáp Thân), Tạ Tỵ đã từ trần tại nhà riêng số 18/8 đường Phan Văn Trị, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, sau một cơn bệnh kéo dài do tuổi già, hưởng thọ 83 tuổi.

 

Tác phẩm

Hội họa

4_TaTy

Bức tranh “Đàn bà”, tác phẩm tiêu biểu thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ, 1951

  • 1951: triển lãm 60 bức tranh tại Hà Nội
  • 1956: cuộc triển lãm hơn 60 bức tranh đầu tiên tại Sài Gòn
  • 1961: Cuộc triển lãm lần thứ hai 60 bức tranh lập thể và trừu tượng ở Sài Gòn

Tác phẩm của ông được trưng bày tại nhiều bảo tàng viện nghệ thuật quốc tế ở Tokyo, San Francisco, New YorkParis.

Văn chương

  • Những Viên Sỏi (tập truyện), NXB Nam Chi Tùng Thư 1962
  • Yêu Và Thù (tập truyện), NXB Phạm Quang Khai 1970
  • Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ (nhận định văn học), NXB Nam Chi Tùng Thư 1970
  • Phạm Duy Còn Ðó Nỗi Buồn, NXB Văn Sử Học 1971
  • Cho Cuộc Đời (thơ), NXB Khai Phóng 1971
  • Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (Nhận định văn học), NXB Lá Bối 1972
  • Bao Giờ (tập truyện), NXB Gìn Vàng Gởi Ngọc 1972
  • Ý Nghĩ (tạp văn), NXB Khai Phóng 1974
  • Ðáy Ðịa Ngục (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1985
  • Những Khuôn Mặt Văn Nghệ – Đã Ði Qua Ðời Tôi (hồi ký), NXB Thằng Mõ 1990
  • Xóm Nhà Tôi (tập truyện), NXB Xuân Thu 1992

Nhận xét

Tạ Tỵ là một nghệ sĩ đa tài. Ban đầu ông có vẽ sơn mài, cùng thời kỳ với những họa sĩ như Nguyễn Gia Trí, Lê Phổ, Nguyễn Tư Nghiêm… Nhưng ông được biết đến nhiều hơn cả khi đi theo trường phái tranh lập thể. Theo họa sĩ Trịnh Cung, Tạ Tỵ là người gắn bó và đi đầu trong phong cách hội họa lập thể ở Việt Nam từ thập niên 1940 đến 1960. Sang thập niên 1970, ông chuyển sang phong cách trừu tượng.

Tuy sống trong thời kì hai miền Việt Nam chia cắt, nhưng người ta không tìm thấy bóng dáng chiến tranh trong hội họa Tạ Tỵ. Một mảng tranh được công chúng biết đến nhiều là những bức ký họa do Tạ Tỵ vẽ về những nghệ sĩ mà ông quen biết. Những bức chân dung các nghệ sĩ như Đái Đức Tuấn, Vũ Hoàng Chương, Trịnh Công Sơn… có thể tìm thấy nhiều trên sách báo miền Nam Việt Nam trước 1975 và được giới nghệ sĩ đánh giá cao.

Ngoài hội hoạ, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực sáng tác: truyện, thơ, kịch bản, bút ký… Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, Tạ Tỵ đã để lại nhiều tác phẩm với các thể loại khác nhau.

Ðề tựa cho tuyển tập truyện ngắn Những Viên Sỏi của Tạ Tỵ xuất bản lần đầu tiên, Nhà văn Nguyễn Hoạt viết: “Tôi nhận thấy trong con người Tạ Tỵ cũng như trong tác phẩm văn chương của anh, cái đáng yêu nhất, đáng quý nhất vẫn là ‘Tình Thương’ chân thành, một ‘Tình Thương’ do sự khích động qua xúc cảm mà bật ra, chứ không phải là một thứ văn chương hời hợt, giả tạo.”

Tranh Tạ Tỵ

 

TuHoa

Tạ Tỵ – chân dụng tự họa

Năm 1951, Tạ Tỵ triển lãm tranh tại Hà Nội, có lẽ bức tranh sơn dầu mang tên Cô Đơn (67 x 54.5 cm) đã có mặt.(xem ảnh) Bức tranh Cô Đơn được nhà Sotheby đấu giá hồi tháng 4 năm 2000, và bán được với giá khá cao: 19.550 Singapore dollars.

Trong catalogue của Sotheby đã nhận xét bức tranh:

“Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ Lập Thể của Tạ Tỵ. Tác giả sử dụng tài tình những màu sắc mạnh mẽ, đặt nhân vật ngay vào ngay trung tâm bức tranh, những hình thể kỹ hà, chẳng hạn như việc xử lý mái tóc không tuân theo luật đăng đối, đường nét mạnh bạo của chiếc cổ và sự sắp xếp của khăn quàng thành những mặt cắt của một hình kim cương… tất cả bố cục này tạo thành một bức tranh Lập Thể độc đáo.”

Vào đầu thập niên 1960, Tạ Tỵ vẽ một loạt 50 chân dung của các nhân vật văn nghệ miền Nam Việt Nam. Đây là loạt tranh chân dung đầu tiên thể hiện những cá nhân độc đáo, trong một phong cách đặc biệt. Sự phối hợp truyền thần và phong cách Lập thể, những mảng màu tương phản gắt gao cắt nhau, nhằm bộc lộ cá tính và nghề nghiệp của nhân vật.

Như bức tranh Chân dung Vi Huyền Đắc là một ví dụ. Vi Huyền Đắc vừa là nhà ngôn ngữ học, tự vị học và nhà viết kịch. Nhưng nơi con người có nhiều khả năng này, Tạ Tỵ đã chọn “nhà viết kịch” để thể hiện Vi Huyền Đắc: chân dung được trình bày bên cạnh bức màn sân khấu đỏ rực, cứ như Vi Huyền Đắc đang ở bên cánh gà.

Bức Mùa hè đỏ lửa (1972, 350 x 170 cm), khi Tạ Tỵ trở về Việt Nam, bức tranh được đổi tên Cất Cánh, vẽ theo phong cách trừu tượng, được treo ở Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1998. Đây là bức tranh sơn dầu lớn nhất trong bộ sưu tập của nhà bảo tàng này.

 

Thơ Tạ Tỵ

 

 

Thương về năm cửa Ô xưa

Tôi đứng bên này vỹ tuyến

Thương về năm cửa Ô xưa

Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối

Đê cao hun hút chợ Dừa

Cầu Rền mưa dầm lầy lội

Gió về đã buốt lòng chưa?

Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ

Nhị Hà lấp lánh sao thưa

Cầu Giấy đường hoa phượng vỹ

Nhớ nhung biết mấy cho vừa…

Cửa Ô ơi, cửa Ô

Năm ngả đường đất nước

Trôi từ vạn nẻo sông hồ

Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội

Gục đầu nhớ tiếng võng đưa!…

Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy suôi ý đẹp

Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người

Tê tái tiếng cười

Từng cánh hoa đời khép lại

Thương về năm cửa Ô xưa!…

 

Câu chuyện ngày xưa

(Trích)

…Một buổi em đi mười chín

Lấy chồng Kinh Bắc xa xôi.

Đồi núi chập chùng mở hội,

Gió về se lạnh lòng tôi.

Gác nhỏ giã từ tưởng vọng

Mưa về quằn quại tiếc thương

Đâu giấc mơ tình dằng dặc?

Nhìn qua ô cửa mười phương…

…Em lại trở về buồng cũ

Bên chồng ôm ấp con thơ.

Tôi lại trở về gác nhỏ,

Nhìn em như chẳng bao giờ.

Nhưng thôi còn đâu buổi ấy

Tôi ngồi dằn bút lòng đau.

Gác cũ trơ vơ gạch ngói,

Kinh thành tang tóc lên mầu.

Phố nhỏ nằm trơ nắng rãi

Bóng nghiêng cây đổ đường dài.

Lớp lớp nhà xiêu bụi trắng,

Mùa thu tím sắc lòng ai?

Em có về đây một buổi

Tôi chờ đã héo mầu hoa.

Năm tháng phai xanh tàn tạ,

Hờ ơi, thuở ấy đâu mà ?…

(Hà Nội, 1952

Tieu Su Khac:

 

– Sinh năm 1921 tại Hà Nội (Khai sinh đề 1922 Hà Đông).

– Tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương năm 1943.

– Tốt nghiệp Khóa 3 Trường Võ Bị Sĩ Quan Thủ Đức với cấp bậc Thiếu Úy. Giải ngũ tháng 6 năm 1972 với cấp bậc Trung Tá theo qui chế Quân Đội.

– Trong thời gian tại ngũ đã công tác gần khắp các nước Á Châu.

 

  1. Nghệ Thuật Tạo Hình:

 

Tác phẩm đầu tay về hội họa với nhan đề Mùa Hạ đã được giải thưởng tại phòng triển lãm Salon Unique tại Hà Nội vào năm 1941, do chính phủ Pháp tặng.

– Tác phẩm Hoa Đăng trưng bày tại phòng Triển Lãm Mùa Thu năm 1946, trước ngày kháng chiến đã được Hiệp Hội Báo Chí Việt Nam tặng giải thưởng.

– Đã thực hiện một phòng triển lãm trong kháng chiến (tại Liên Khu 3) cùng với Văn Cao và Bùi Xuân Phái vào năm 1948.

– Đã có những tác phẩm được tuyển lựa để gửi đi dự thi những cuộc Triển Lãm Quốc Tế như Nhật Bản và Hoa Kỳ v.v… từ năm 1940-41-42.

– Là người đầu tiên đưa nền Hội Họa Việt Nam vào con đường tiền tiến của nền Hội Họa Âu Châu từ năm 1943.

– Đã tổ chức được 3 phòng triển lãm cá nhân:

. Tại Hà Nội năm 1952 trưng bày 55 họa phẩm lập thể.

. Tại Sàigòn năm 1956 gồm 57 họa phẩm lập thể và trừu tượng.

. Tại Sàigòn năm 1961 trưng bày 60 họa phẩm trừu tượng.

– Dự định sẽ trưng bày 100 họa phẩm: 50 tranh trừu tượng và 50 khuôn mặt văn nghệ sĩ hiện đại vào cuối năm 1975. Số tranh trưng bày vẽ đã gần đủ, nhưng chẳng may miền Nam bị Cộng Sản lấn chiếm vào ngày 30-4-75, nên dự định bị hủy bỏ vĩnh viễn.

– Đi cải tạo gần 6 năm, qua 7 trại, từ Nam tới miền Bắc.

 

  1. Văn Học:

 

– Đã cộng tác với các tạp chí từ Hà Nội tới Sàigòn kể từ năm 1951 tới ngày 30-4-1975. (Xin xem bản liệt kê)

– Tác phẩm văn học đầu tiên: Tuyển tập truyện ngắn Những Viên Sỏi do nhà Nam Chi Tùng Thư xuất bản năm 1962 tại Sàigòn.

– Đã cộng tác với các tạp chí văn học tại miền Bắc và miền Nam từ năm 1950 đến 30-4-1975: Thế Kỷ, Đời Mới, Nguồn Sống Mới, Sáng Tạo, Văn, Văn Học, Hiện Đại, Nghệ Thuật, Bách Khoa và Tin Văn, Thế Kỷ 21 (Hoa Kỳ)

 

Những Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Miền Nam

 

  1. Những Viên Sỏi, tập truyện, Nam Chi Tùng Thư, 1962
  2. Yêu Và Thù, tập truyện, Phạm Quang Khai, 1970
  3. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ, nhận định văn học, Nam Chi Tùng Thư 1970. Đã được nhà xuất bản Hội Nhà Văn Việt Nam (XHCN) tái bản tại Hà Nội năm 1996
  4. Phạm Duy Còn Đó Nỗi Buồn, Văn Sử Học, 1971
  5. Cho Cuộc Đời, thơ, Khai Phóng, 1971
  6. Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay, nhận định văn học, Lá Bối, 1972, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, 1991
  7. Bao Giờ, tập truyện, Gìn Vàng Giữ Ngọc xuất bản 1972
  8. Ý Nghĩ, tạp văn, Khai Phóng, 1974.

 

Những Tác Phẩm Xuất Bản Tại Hoa Kỳ

 

  1. Đáy Địa Ngục, hồi ký cải tạo, Cơ Sở Thằng Mõ, 1985
  2. Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi, hồi ký, Cơ Sở Thằng Mõ, 1990
  3. Xóm Nhà Tôi, tập truyện viết trong những ngày tháng lưu vong nơi đất khách, nhà xuất bản Xuân Thu 1992
  4. Mây Bay, thi phẩm, Miền Nam xuất bản 1996.

 

Sẽ Xuất Bản

 

  1. Cuộc Đời Và Hội Họa (Hồi ký)
  2. Văn Nghệ Là Gì? (Tiểu luận).

 

Vì Sao Tôi Viết?

 

Tôi sinh ra đời, hình như định mệnh đã an bài, bởi vậy tất cả những gì tôi làm ra đều có bàn tay của định mệnh dính vào.

Lúc còn trẻ tôi yêu tất cả những thứ gì thuộc về văn chương nghệ thuật, nhưng tôi mê kéo vĩ cầm hơn cả. Vào năm 1936-37 gì đó, tôi được nghe tiếng đàn của nhạc sĩ Nguyễn Văn Giệp tại Nhà Hát Lớn Hà Nội. Anh chơi bản Dance Macabre với tiếng dương cầm phụ họa của nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiếu. Tất cả nhà hát đều yên lặng để thưởng thức tiếng đàn tuyệt vời của hai nhạc sĩ trứ danh nhất của đất Thăng Long thời đó. Tôi về nhà xin Mẹ tiền mua cây đàn và quyển Mazas, là cuốn sách học kéo violon vỡ lòng. Tôi học kéo đàn song song với học vẽ ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Vì mê học nhạc nên tôi quen với cố nhạc sĩ Đỗ Thế Phiệt. Sau mấy năm học thấy không có tiến bộ, tôi bỏ đàn, chuyên về vẽ.

Rồi dần dà định mệnh cứ đẩy tôi từ ngả này qua ngả khác. Ngoài giờ học ở trường, tôi thường ra thư viện đọc những sách về Mỹ Thuật. Tôi đọc tờ báo Illustration có in nhiều tranh của các nhà danh học bên Pháp như Gaugin, Matisse, Van Gogh, Utrillo v.v… nhờ đó tôi mới có ý tưởng vẽ theo lối mới vì nhà trường chỉ dạy những thứ tầm thường, cóp nhặt mà không có sáng tạo.

Sau nhiều năm cầm cọ, đùa vui cùng màu sắc, dù rằng người ta đã tôn vinh hội họa là thứ ngôn ngữ quốc tế (langage Universal). Tuy nói thế, nhưng thứ ngôn ngữ này hạn hẹp quá, chỉ có các nhà chuyên môn mới đoán ra được. Từ ngày tôi chuyển hẳn sang vẽ tranh trừu tượng (từ năm 1960), tôi cảm thấy cô đơn vì luôn luôn là kẻ độc hành trong lãnh vực nghệ thuật tạo hình. Hơn nữa, tầm hoạt động của hội họa bị hạn chế bởi không gian cũng như thời gian, nên chỉ có một số người ở các thành phố lớn mới được thưởng thức, trong một khoảng thời gian nhất định nào đó thôi.

 

Còn một trở ngại to lớn nữa là người họa sĩ chỉ vẽ tấm tranh duy nhất, nếu bán đi, người họa sĩ không còn gì ngoài tấm ảnh chụp giữ làm kỷ niệm.. Vì nhìn thấy cái thế “yếu” của hội họa, vả lại, cuộc sống trong chiến tranh có rất nhiều sự việc tác động mạnh và sâu đậm trong tâm cảm mà hội họa bất lực, không thể nói bằng màu sắc được. Do đó, tôi phải nhờ tới văn chương cũng như thi ca để bày tỏ lập trường, cùng thái độ sống trước tập thể, trước xã hội.

Biết bao nhiêu đổ vỡ, tang thương do chiến tranh gây ra. Biết bao nhiêu tuổi trẻ đã lên đường và cũng có bao nhiêu vòng khăn tang đã quấn ngang đầu, bao nhiêu tiếng khóc than vật vã, với đôi tay bé nhỏ xanh xao của người góa phụ, ôm lấy chiếc quan tài phủ lá quốc kỳ với vòng hoa cườm có hàng chữ “Tổ Quốc Ghi Ơn”, nhưng tôi được biết, trong chiếc quan tài đó chỉ có chiếc bọc nylon ôm gọn thây người chiến sĩ đã nát bấy vì pháo địch, chỉ còn lại một đống thịt xương bầy nhầy với chiếc thẻ bài lẫn lộn trong vũng máu đông đặc vì được cất kỹ trong ô kéo của căn phòng chứa xác cực lạnh. Ngay cạnh đó, một đứa nhỏ chừng ba tuổi gầy ốm đứng nhìn ngơ ngác!

Còn biết bao nhiêu cuộc tình tan tác như những chiếc bong bóng thổi bằng bọt xà bông. Đại lộ kinh hoàng còn đó. Xác những chiếc xe tăng của Trung Cộng, của Liên Xô, của Mỹ còn nằm rải rác dọc theo đường số 1 như những con quái vật thời tiền sử và còn nhiều, nhiều nữa những dấu ấn của chiến tranh cần phải nói ra, nhưng hội họa quả tình bất lực trước vấn đề này. Chỉ có văn chương mới đủ sức khai quật những oan khuất chìm ở đáy sâu tâm cảm.

 

Thú thực, tôi làm văn nghệ không cầu mong nổi tiếng, vì tôi làm cho cuộc đời và cũng cho tôi. Tôi cộng tác viết bài cho nhiều tạp chí văn học, nhưng cho đến nay, tôi vẫn không ở nhóm nào. Tôi vốn không thích bè phái. Có bè phái là có bao che, để đưa nhau lên và cũng để dìm đối tượng xuống bùn đen một khi không ưng ý. Điều đó chúng ta phải nhận là có trong sinh hoạt văn nghệ Việt Nam. Theo ý riêng tôi, làm văn nghệ phải vô tư, độc lập, trong suy nghĩ cũng như hành động, vì thế, tôi thường nghi ngờ sự khen chê của người này đối với người khác.

Không hiểu sao, tôi rất sợ đám đông, nên ít khi có mặt tại những nơi tổ chức có đông đảo người tham dự. Tôi thích cô đơn. Sự cô đơn làm tôi thấy tâm hồn mình thư thái hơn, khỏe mạnh hơn, vì: “có cứng mới đứng đầu gió”. Ngựa hay mới chạy được đường dài.

Tôi thả những cánh hoa nghệ thuật bay theo chiều gió, chẳng biết có cánh nào rơi vào bàn tay thân ái của kẻ sĩ?

 

Tạ Tỵ

(Hợp Lưu số 32, Xuân Đinh Sửu 1997, trang 216)